GASLIGHTING – THỦ THUẬT THAO TÚNG TINH THẦN NẠN NHÂN

"Gaslighting là gì?"

Gaslighting, về mặt định nghĩa, là một thủ thuật để điều khiển, bạo hành và thao túng nạn nhân khiến cho nạn nhân sợ hãi và nghi ngờ bản thân mình. Nói tóm lại, mục đích tối thượng của Gaslighting là để ghi đè và sửa chữa sự thật mà nạn nhân muốn phơi bày.

Thuật ngữ gaslighting (nghĩa đen: "Thắp sáng đèn ga") đến từ vở kịch Gaslight (1938) (chuyển thể thành phim năm 1944) nói về hành vi bạo hành tâm lý có hệ thống của nhân vật Jack Manningham lên vợ ông là Bella Manningham. Jack dùng đèn ga để tìm báu vật ở gác xép, nhưng khi người vợ nhận ra đèn đang mờ đi và bàn với chồng về chuyện đó thì ông phủ nhận và bảo rằng đấy chỉ là do bà tưởng tượng ra. Đây là một dạng bạo hành tâm lý rất hiệu quả vì nó khiến nạn nhân tự nghi ngờ cảm xúc, bản năng và sự tỉnh táo của mình. Khi đó, kẻ bạo hành sẽ có rất nhiều quyền lực lên nạn nhân và có thể dễ dàng kiểm soát nạn nhân. Một khi nạn nhân đã mất khả năng tin tưởng vào chính bản thân mình thì họ sẽ khó mà rời bỏ người bạo hành hơn.

Người bạo hành có thể dùng những chiêu trò sau để gaslight nạn nhân:

  1. Từ chối: Người bạo hành có thể giả vờ không hiểu hoặc từ chối lắng nghe hay chia sẻ cảm xúc. Họ sẽ nói những câu như "Tôi không muốn nghe về vấn đề này nữa" hoặc là "Anh/em/bạn đang cố làm tôi hoang mang phải không?".

  2. Phản kháng: Người bạo hành sẽ chất vấn trí nhớ của nạn nhân mặc dù nạn nhân đã nhớ đúng. Một ví dụ là trong phim Gaslight, Jack thay đổi vị trí của các đồ vật trong nhà và khi Bella chỉ ra sự khác biệt đó thì Jack khăng khăng bảo rằng vợ mình bị điên và trí nhớ cô có vấn đề. "Em sai rồi, em chẳng bao giờ nhớ gì cả!" hay "Nhớ lần trước em cũng nghĩ vậy mà rốt cuộc em đã sai đấy!" là những câu nói điển hình của kẻ sử dụng chiêu trò này.

  3. Ngăn chặn/Đánh lạc hướng: Người bạo hành tìm cách đánh lạc hướng bằng cách thay đổi chủ đề sang chất vấn suy nghĩ của nạn nhân. Chiêu trò này được thể hiện qua những câu như "Rõ ràng là mày đang tưởng tượng ra thôi chứ làm gì có chuyện như thế!", "Con không đủ trình độ để hiểu, để nhận thức sự việc nên mới có phản ứng bốc đồng như vậy", hoặc "Cái này chắc lại là suy nghĩ điên rồ từ đứa bạn của em chứ gì! Sao cứ nghe lời nó mãi thế!".

  4. Tầm thường hóa: Người bạo hành sẽ không coi trọng cảm xúc hay suy nghĩ của bạn. Họ sẽ nói những câu như là "Em nhạy cảm quá đấy!" hoặc "Chuyện chẳng có gì mà sao mày cứ làm quá lên vậy!" hoặc "Cậu định cãi nhau chỉ vì chuyện cỏn con như thế này thôi à?".

  5. Giả quên/Chối bỏ: Người bạo hành giả vờ như họ đã quên mọi chuyện hoặc chối bỏ sự thật rằng họ đã làm việc gì đó. Ví dụ như việc họ chối bỏ rằng họ đã hứa với nạn nhân để không phải thực hiện lời hứa. Họ sẽ coi lời cáo buộc đúng đắn của nạn nhân là vớ vẩn vì họ "chưa bao giờ làm như vậy". Hoặc khi người bạo hành có câu nói mang tính xúc phạm nạn nhân và biết đó là sai, nhưng khi nạn nhân phản kháng hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ, người đó sẽ lái câu chuyện sang một hướng khác và chối biệt việc mình đã làm.

Gaslighting thường diễn ra rất chậm. Ban đầu, hành vi của người bạo hành có vẻ như rất bình thường và vô hại. Tuy nhiên, qua thời gian, những hành vi này sẽ được lặp lại và tiếp diễn đến khi nạn nhân cảm thấy hoang mang, lo lắng, sợ sệt, cô độc, trầm cảm, và cuối cùng họ có thể bị mất khả năng nhận thức chuyện gì đang diễn ra và đâu là sự thật. Khi đó, họ sẽ phải nhờ vả và phụ thuộc vào người bạo hành để xác định đâu mới là thực tế, từ đó tạo nên một tình huống khiến việc dứt bỏ là vô cùng khó khăn.

Hậu quả của Gaslighting (thao túng nạn nhân) có thể rất nặng nề, nhẹ nhất là khiến cho nạn nhân tự nghi ngờ bản thân cho đến nặng hơn cả là đẩy nạn nhân vào rối loạn trầm cảm, rối loạn lo âu và không còn tỉnh táo. Chúng ta cần phải để ý từng lời nói, hành động của mình và cố gắng đừng dồn ép người khác vào đường cùng chỉ để chứng minh quan điểm của mình là đúng.

(Sưu tầm)